Liên Xô bắt đầu quan tâm và nghiên cứu cho không quân Hải
quân từ sau sự kiện khủng hoảng tên lửa Hạt nhân Cuba. Trong thời kỳ Chiến
tranh Lạnh, Hải quân Liên Xô kém đối thủ mà cụ thể là với Hoa Kỳ về nhiều mặt,
đặc biệt là hạm đội tàu sân bay. Công nghiệp đóng tàu Liên Xô không đủ khả năng
để đóng mới các tàu sân bay tương đương với những tàu sân bay mà Hoa Kỳ đang sở
hữu.
Vì vậy, các kỹ sư Liên Xô đã đưa
ra kế hoạch kết hợp tàu sân bay và tàu tuần dương trong cùng một thiết kế -
hình thành nên đề án 1143 hay còn gọi là lớp Kiev. Loại tàu chiến này sẽ cho
phép những máy bay chiến đấu phản lực cất và hạ cánh, đồng thời trang bị vũ khí
đủ để nó tự vệ và tấn công mà không cần tàu hộ tống.
Cũng vì quá tham lam nhiều nhiệm
vụ trên 1 con tàu lưỡng dụng như Kiev, nên boong tàu còn rất ít không gian làm
bãi đỗ và đường băng cho máy bay cất và hạ cánh. Việc này kéo theo đòi hỏi cần
phải có một chiếc máy bay có thể cất và hạ cánh càng ngắn càng tốt, mà nếu thẳng
đứng thì hoàn hảo.
Trong khi dự án Yak-36 mới chỉ dừng
lại nguyên mẫu thực nghiệm khả năng bay và còn nhiều việc phải hoàn thiện như
trọng tải, vũ khí, hệ thống điện tử, v.v... Mỗi sự thay đổi nhỏ đều ảnh hưởng đến
khả năng hoạt động của máy bay và cần thêm thời gian tính toán và thực nhiệm.
Thì Liên Xô như bắt được vàng khi
lực lượng tình báo công nghệ của nước này đã có trong tay bản thiết kế Hawker
P.1154 bị hủy bỏ của Anh. Đây là bản thiết kế phát triển dựa trên sự thành công
của dự án Hawker P.1127 với nhiều tham vọng của NATO.
Ngày 22/9/1970, Liên Xô đã cho
nguyên mẫu có số đuôi 05 với sự điều khiển của phi công thử nghiệm V. G. Mukhin
đã thực hiện động tác bay lơ lửng tự do đầu tiên cách mặt đất nửa mét. Chỉ có
điều, nó không mang hình dáng cục mịch của Yak-36, một thiết kế thanh thoát hoàn
toàn mới như chiếc Harrier. Phía Liên Xô gọi đây là Yak-36M.
Đến năm 1976, Liên Xô quyết định đưa Yak-36M vào biên chế cho
Hải quân Liên Xô với tên gọi mới Yak-38 trễ hơn những chiếc Hawker Siddeley
Harrier thế hệ đầu tiên 7 năm, và sớm hơn Sea Harrier 3 năm.